Nghiên cứu hiện tại được thực hiện nhằm xác định các yếu tố nguy cơ liên quan đến tần suất hỗ trợ đẻ trên heo nái cao sản trong môi trường nhiệt đới và nghiên cứu tác động của việc hỗ trợ đẻ đối với lượng tiêu thụ sữa non của heo con và sản lượng sữa non của heo nái.
Phương pháp: Dữ liệu đẻ của 352 nái lai Landrace×Yorkshire và 5.554 heo con trong năm đàn heo thương phẩm ở Thái Lan đã được nghiên cứu. Các heo nái được phân loại theo số lứa đẻ: 1 (n = 72), 2 đến 4 (n = 128), 5 đến 6 (n = 84) và ≥7 (n = 68) và tổng số heo con sinh ra trong một lứa: 10 đến 13 (n = 90), 14 đến 16 (n = 117) và ≥17 (n = 145). Tỷ lệ hỗ trợ đẻ và các thông số liên quan đã được nghiên cứu.
Kết quả: Tổng số heo con sinh ra trong một lứa và thời gian đẻ trung bình lần lượt là 15,8 ± 0,2 và 279,9 ± 11,2 phút. Tỷ lệ nái cần hỗ trợ đẻ là 29,8% và dao động giữa các đàn từ 5,7% đến 53,3%. Tỷ lệ heo con sinh ra sau khi được hỗ trợ đẻ bằng các biện pháp can thiệp thủ công là 8,4%. Nái có số lứa đẻ là 1 và từ 2 đến 4 có tần suất được hỗ trợ đẻ thấp hơn nái có số lứa đẻ ≥ 7. Sản lượng sữa non của nái cần hỗ trợ đẻ không khác biệt so với nái đẻ tự nhiên (5,3 ± 0,2 và 5,1 ± 0,1 kg); tuy nhiên, lượng tiêu thụ sữa non của heo con sinh ra từ nái cần hỗ trợ đẻ thấp hơn so với heo con sinh ra từ nái không cần hỗ trợ đẻ (302,2 ± 15,7 và 354,2 ± 5,6 g). Độ bão hòa oxy trong máu của heo con sinh ra sau khi được hỗ trợ đẻ có xu hướng thấp hơn so với heo con được sinh ra tự nhiên (87,8% ± 1,3% so với 90,4% ± 0,4%).
Kết luận: Tần suất hỗ trợ đẻ ở heo nái khác nhau giữa các đàn và bị ảnh hưởng bởi số lứa đẻ. Heo con sinh ra sau khi được hỗ trợ đẻ cần được chăm sóc đặc biệt để cải thiện độ bão hòa oxy trong máu và tăng lượng sữa non tiêu thụ.
Wongwaipisitkul N, Chanpanitkit Y, Vaewburt N, Phattarathianchai P, Tummaruk P. Factors associated with farrowing assistance in hyperprolific sows. Animal Bioscience. 2024; 37(1): 39-49. doi:10.5713/ab.23.0169